Ứng dụng công nghệ ghi bản trực tiếp từ máy tính (CtP ) vào sản xuất. Xu hướng này là không thể đảo ngược và câu hỏi hiện nay không phải “ Có đầu tư CtP hay không ? “ đã chuyển thành “Khi nào thì đầu tư CtP“ .
Với việc ứng dụng CtP vào sản xuất nhiều vấn đề mới được đặt ra , nhiều khó khăn phải giải quyết. Trong phạm vi bài viết nhỏ này chúng tôi muốn chia xẻ những nhận xét về việc ứng dụng CtP từ những ngày đầu tiên, những khó khăn gặp phải và những thông tin về CtP trên thế giới.
Tình hình ứng dụng CtP trên thế giới
Để có cái nhìn toàn cảnh rõ ràng nhất về ứng dụng CtP trên thế giới và các xu hướng tiếp theo của công nghệ thì nguồn đáng tin cậy nhất trong lĩnh vực này là Vantage Strategic Marketing Report. Tài liệu này được xuất bản hàng năm và là một định hướng cho người dùng cuối cũng như các nhà sản xuất thiết bị.
Máy ghi film
Tổng lượng máy ghi film được bán trong năm 03 trên toàn thế giới là 2,240 hệ thống và đã giảm khoảng -40% so với năm 2002 . Chỉ có khoảng 1000 máy ghi film được dự đoán cho năm 2008.
Châu Á Thái Bình Dương có 5917 hệ thống đã được lắp đặt tới năm ’00, 6183 là tổng lượng máy ghi tới thời điểm ’04 và tổng số được chờ đợi tới năm ’08 là 5408 hệ thống.
Các số liệu trên cho thấy một xu hướng thú vị . Trong khi số lượng máy ghi film trên toàn thế giới đang giảm dần thì vùng châu Á Thái Bình Dương vẫn tăng trong một thời gian ngắn . Lý do của sự bất thường này là các thiết bị ghi film được thay thế bởi CtP tại các thị trường phát triển như Châu Âu và Bắc Mỹ sẽ được bán với giá thấp sang các thị trường kém phát triển hơn . Mặc dù vậy xu hướng này không kéo dài và sẽ giảm từ năm ’08
Công nghệ ghi bản nhiệt hay ghi bản với laser ánh sáng trong vùng khả kiến
Tổng lượng máy ghi bản trên toàn thế giới năm ’00 là 6638 hệ thống CtP trong đó ghi bản nhiệt chiếm 49% (3244). Năm ’04 số lượng tăng lên 23424 hệ thống , trong đó 56% (13181) là công nghệ ghi bản nhiệt . Năm ’08 số lượng hệ thống CtP được chờ đợi đạt con số 38655 với 56% (21788) là ghi bản nhiệt.
Châu Á Thái Bình Dương được dự đoán như sau : Năm ’00 có 186 máy ghi bản được lắp đặt , Năm ’04 có 1513 hệ thống. VSM dự đoán số lượng máy ghi bản đạt 4375 hệ thống cho vùng Châu Á Thái Bình Dương trong năm ’08.
Lựa chọn công nghệ nào phù hợp với tình hình sản xuất tại Việt nam.
Tất cả các công nghệ ghi bản trực tiếp từ máy tính đều có ở Việt nam hiện nay. Đó là các máy ghi bản dùng các loại bản nhạy với nhiệt có bước sóng 830 nm , máy ghi bản dùng laser có bước sóng 405 nm ( Violet laser ) cho các loại bản có lớp phủ Photopolymer . Máy ghi bản nhiệt có dùng Fiber laser cho các loại bản Flexo. Thậm chí có cả các máy ghi dùng đèn UV ghi trên các loại bản PS thông thường. Bất cứ công nghệ nào cũng có mặt ưu và khuyết và công việc của chúng ta là nhận biết được một cách rõ ràng nhất các ưu khuyết này nhằm lựa chọn một công nghệ phù hợp với nhu cầu đặc thù của từng đơn vị.
Công nghệ ghi bản nhiệt.
Các đặc điểm: Sử dụng laser nhiệt ( hồng ngoại ) có bước sóng 830 nm ; Ghi bản theo nguyên lý trống ngoại sử dụng nhiều tia laser (32-512 tia); Tốc độ từ 8 bản /giờ tới 30 bản giờ - Các máy ghi nhiệt ở Việt nam hiện nay có tốc độ phổ biến là 13 và 20 bản /giờ ; Khổ ghi chủ yếu là 8 trang ( Khổ máy 102 ).
Loại bản kẽm: Kẽm nhiệt nhạy với bước sóng 830 nm. Loại dương bản và sử dụng trong điều kiện ánh sáng ban ngày . Quá trình hiện tương tự hiện bản PS. Chất lượng đạt 1-99% với 200 Lpi / 2400dpi . Độ bền bản trung bình 100.000 lượt in
Các ưu điểm của công nghệ ghi bản nhiệt.
Ưu điểm chủ yếu của công nghệ ghi kẽm nhiệt chính là yếu tố chất lượng của bản thân các loại kẽm nhiệt. Do nguyên lý phản ứng chỉ xảy ra khi mức năng lượng nhiệt vượt qua một ngưỡng nào đó và không tăng thêm cho dù nhiệt có tăng lên nữa cho nên chất lượng của các bản ghi kẽm nhiệt luôn luôn ổn định và tuyến tính . Thậm chí không cần phải calibrate ( cân chỉnh laser máy ghi ). Luôn luôn chúng ta có thể đảm bảo 50% trên file là 50% trên bản kẽm .
Độ phân giải của bản kẽm nhiệt rất cao là một yêu cầu tiên quyết khi muốn in với tram FM kích thước 20 micron. In được tram FM là một trong những ưu điểm vượt trội của ghi kẽm nhiệt so với bản Photopolymer
Kẽm nhiệt đã chở nên phổ biến trên thị trường với nhiều nhà cung cấp kể cả các nhà cung cấp địa phương. Với nguyên lý ghi kẽm nhiệt thì việc ứng dụng các loại kẽm không cần xử lý hóa chất là khả thi và các loại kẽm này đã có mặt trên thị trường.
Quá trình hiện và xử lý kẽm nhiệt tương tự kẽm PS thông thường rất thuận tiện trong điều kiện sản xuất tại việt nam.
Công nghệ chế tạo bản kẽm nhiệt đã được kiểm chứng trong một thời gian dài và đã đạt độ ổn định cần thiết. Hiện nay trên thị trường chỉ có duy nhất loại kẽm nhiệt nhạy với bước sóng 830 nm kể cả loại dương bản cũng như âm bản
Nhược điểm:
Tổng giá đầu tư cho thiết bị ghi kẽm nhiệt cao hơn máy ghi bản photopolymer . Nguyên nhân nằm ở chính cấu trúc máy ghi trống ngoại và nguồn laser. Để tiện so sánh chúng ta có thể thấy nguồn laser cho máy ghi kẽm nhiệt có công suất tổng cộng từ 32W tới 50 W khi so sánh với máy ghi bản photopolymer chỉ có 60mW hay máy ghi film 10-20mW .
Tuỳ theo cấu trúc đầu ghi của máy ghi kẽm nhiệt việc thay thế laser có thể rất đắt tiền. Trong mọi trường hợp thì việc thay thế laser của máy ghi kẽm nhiệt đều cao hơn máy ghi dùng laser Violet.
Công nghệ ghi bản với laser có ánh sáng trong vùng khả kiến.
Đặc điểm : Sử dụng nguồn sáng laser có bước sóng khác nhau 405 nm ( laser diode ) , 488 nm (Argon-ion Laser ) , FD- YAG laser ; Thông thường bản được ghi theo nguyên lý trống nội hay phẳng ( flat bed ) với 1 tia laser ( trừ trường hợp Fuji Luxel với 2 laser ). Tốc độ từ 16 bản /giờ cho tới 150 bản giờ . Ở Việt nam hiện nay các máy ghi ứng dụng cho báo có tốc độ từ 30-40 bản /giờ .
Bản dùng cho công nghệ này có rất nhiều chủng loại phù hợp với nguồn sáng laser được sử dụng . Cần lưu ý là các loại bản này không tương thích với nhau. Loại bản duy nhất hiện nay được sử dụng tại Việt nam là bản Photopolymer nhạy với bước sóng 405 nm và là bản negative ( Âm bản ) . Nếu sử dụng theo đúng các quy trình sản xuất của nhà cung cấp , các loại bản này cho phép số lượt in có thể lên tới 150.000 lượt in.
Hiện bản Photopolymer cần có máy hiện được trang bị bộ phận làm nóng trước khi hiện ( Preheat ) . Theo các thông số kỹ thuật của nhà sản xuất thì độ phân giải cho phép từ 2% tới 98% tram 175 Lpi/ 2540 dpi nhưng trong thực tế thông thường là 3-97 % sau khi calibrate ( Cân chỉnh laser máy ghi ) . Bản có độ nhạy cao nên phải được sử dụng trong môi trường có ánh sáng vàng . Tuỳ theo các nhà sản xuất, ánh sáng vàng này cũng có những tiêu chuẩn khác nhau.
Các ưu điểm :
Nói chung thì giá thành đầu tư máy ghi bản Photopolymer cùng với máy hiện thấp hơn máy ghi bản nhiệt . Lý do là nguồn laser và cấu trúc máy cũng tương tự như máy ghi film ngoại trừ cơ chế nạp và lấy bản ra.
Nguồn laser công suất thấp nên có thời hạn sử dụng rất dài . Công suất laser chủ yếu hiện nay là 60 mW , trong những năm tới có thể laser 100 mW sẽ dần thay thế các laser hiện nay. Các thử nghiệm đã tạo được các nguồn laser có công suất tới 2W hoặc 4 W . Tất nhiên khi nguồn laser tăng công suất thì giá thành máy cũng tăng theo.
Tốc độ cũng là một ưu điểm lớn của công nghệ này , đặc biệt là cho các khách hàng in báo hàng ngày. Các máy ghi chuyên dụng cho in báo của hãng Krause cho phép ghi tới 300 bản khổ tabloid một giờ. Các đơn vị đang dùng công nghệ này thường là các cơ sở in báo hay có liên quan đến in báo
Nhược điểm :
Nhược điểm chủ yếu nằm trong chất lượng của bản Photopolymer với độ phân giải 3-97% và không phù hợp cho tram FM 20 micron. Cách giải quyết thông thường là các hãng sản xuất thường đề nghị sử dụng các loại tram Hybrid. Trong mọi trường hợp thì chất lượng của bản Photopolymer đều thấp hơn bản nhiệt. Do đặc trưng của phản ứng quang hóa và độ hội tụ của tia laser các hạt tram sẽ có đường viền , sự sụt giảm tầng thứ có thể được quan sát thấy trong trường hợp in với số lượng lớn đòi hỏi chất lượng cao.
Quá trình hiện và xử lý bản photopolymer qua nhiều công đoạn hơn và các điều kiện cũng khắt khe hơn so với kẽm nhiệt. Các thao tác phải được thực hiện trong phòng có ánh sáng vàng. Hiện tại còn ít nhà cung cấp bản Photopolymer nhưng một tin vui là Kodak đã tham gia thị trường này và như vậy cả ba nhà cung cấp bản chủ yếu là Kodak, Fuji, Agfa đều đã có bản Photopolymer trên thị trường.
Như trên đã trình bày không có một công nghệ nào tỏ ra có ưu thế tuyệt đối và tuỳ theo tình hình và tính chất công việc của từng cơ sở in ta sẽ chọn được công nghệ phù hợp. Nếu là một cơ sở in với sản phẩm chủ yếu là tạp chí , bao bì hay các ấn phẩm có chất lượng cao in trên giấy tốt thì công nghệ ghi bản nhiệt tỏ ra có ưu thế về chất lượng . Trong trường hợp in báo , sách trên máy in cuộn thì công nghệ ghi bản photopolymer thích hợp hơn nhờ có ưu thế về tốc độ . Đó là những điểm chung nhất , điều đó không có nghĩa là ghi bản nhiệt không thể dùng cho in báo hay ngược lại. Tại Việt nam chúng ta gặp phải một khó khăn là các nhà in thường có đủ cả in chất lượng cao cũng như in báo trên máy cuộn. Trong trường hợp này tuỳ thuộc vào lựa chọn của chúng ta là ưu tiên chất lượng hay tốc độ.
Những điểm nào cần lưu ý khi đầu tư CtP.
Đưa CtP vào sản xuất sẽ gây ra một cuộc cách mạng trong việc tổ chức và quản lý quá trình sản xuất của một nhà in. Một điều chắc chắn cần phải được khẳng định là giá thành sản xuất với bản CtP ngày nay đã thấp hơn giá thành sản xuất với bản PS và film như truyền thống. Công nghệ mới sẽ đòi hỏi cách quản lý mới và các điểm này cần được lưu ý ngay từ khi xây dựng dự án.
Bình trang điện tử .
Bình trang điện tử đóng vai trò quyết định đến thành công hay thất bại của một dự án CtP và cần được tập trung nghiên cứu từ rất sớm . Nếu có điều kiện thì nên áp dụng bình trang điện tử ngay trên các thiết bị ghi film hiện có. Đây là một bước quan trọng trong 11 bước khi chuẩn bị đưa CtP vào hoạt động theo Hiệp hội in ấn Mỹ -GATF .
Chúng ta hãy đặt ra một bài toán: Một hệ thống CtP hoạt động hiệu quả sẽ ghi được khoảng 2.000 đến 4.000 bản /tháng tương đương với việc phải bình trang cho 4.000 đến 8.000 trang A4 trong một tháng. Đây là công việc của cả một tổ bình film tương đối lớn với từ 3-5 bàn bình film. Tất cả công việc này phải được hoàn thành với một trạm bình trang điện tử . Việc đầu tư nhiều trạm bình trang trong tình hình Việt nam hiện nay đã bắt đầu khi sản lượng bản tăng lên. Để thoả mãn yêu cầu trên giải pháp bình trang điện tử phải thỏa mãn yêu cầu về tốc độ . Nên đặt ra yêu cầu với nhà cung cấp để có thể thực hiện việc bình trang một cuốn tạp chí 100 trang kể cả bìa trong vòng 20-30 phút. Do tình trạng dữ liệu bình trang thường không tiêu chuẩn về kích thước nên cơ chế Preview của các trang bình phải cho hình ảnh thật của trang bình và quá trình tạo preview phải đủ nhanh để không ảnh hưởng đến tiến độ sản xuất. Lý tưởng là chúng ta có phần mềm bình trang với giao diện đồ họa thường trực để kiểm soát quá trình bình trang trong toàn thời gian. Chính tại điểm này các giải pháp bình trang In-RIP hay ROOM tỏ ra không phù hợp vì không đủ linh hoạt.
Một phần mềm bình trang điện tử phải có sẵn tất cả các kiểu gấp hay nói cách khác là phải có một thư viện các sơ đồ gấp. Thư viện này càng lớn thì tính dễ sử dụng của phần mềm càng cao.
Một lãnh vực thường không được chú ý là bình trang cho máy in cuộn có khả năng in nhiều băng giấy hay có in nửa cuộn . Hãy đặt đề bài này cho các nhà cung cấp.
Phần quan trọng nhất trong việc tìm kiếm giải pháp bình trang điện tử là việc huấn luyện đào tạo. Thông thường thì các phần mềm bình trang điện tử là những phần mềm mềm chuyên dụng và không thể học từ các cơ sở đào tạo bên ngoài như Photoshop hay QuarkXpress. Thông thường thì các phần mềm này cần từ 1 tuần cho tới 1 tháng đào tạo liên tục trong điều kiện thực tế. Trong thời gian đó nên thử tất cả các khả năng bình trang có thể sảy ra tại cơ sở in và giải quyết các yêu cầu chuyên biệt.
Chuẩn hóa dữ liệu
Trong môi trường chế bản chuyền thống , film đóng vai trò như một vật mang thông tin chung gian và tất cả các việc kiểm tra chất lượng, nội dung được thực hiện trên film. Khi chuyển sang CtP chúng ta không còn film nữa . Như vậy một định dạng dữ liệu chuẩn là một yêu cầu cần thiết . Hiện nay định dạng dữ liệu trước RIP tiêu chuẩn là pdf và sau RIP là TIFF-B. Tất cả các hệ thống chế bản hiện nay đều dựa trên các định dạng tiêu chẩn này hay có khả năng xử lý các file định dạng này.
Pdf trong môi trường chế bản chuyên nghiệp.
Pdf file ngày nay đã chở thành một tiêu chuẩn trao đổi dữ liệu giữa nhà in và khách hàng , giữa các hệ thống chế bản này với hệ thống chế bản khác. Là định dạng tiêu chuẩn cho bình trang điện tử . Vấn đề lớn nhất của việc ứng dụng pdf là quá trình kiểm và xử lý lỗi phát sinh trong quá trình tạo pdf cũng như dữ liệu của khách hàng. Phần mềm tốt nhất hiện nay để làm công việc này là Enfocus Pitstop Professional 6.5. Những khả năng của Pitstop vượt xa tất cả các hệ thống workflow có chức năng Prefligh. Chính các nhà cung cấp cũng nhận thấy điều này và các hệ thống mới đều có khả năng tích hợp pitstop profile. Hãy sử dụng pitstop như một phần mềm tiêu chuẩn để tạo ra các file pdf-X1a cho các công đoạn của chế bản.
TIFF-B và các lợi ích mang lại.
Việc nối thẳng RIP với máy ghi bản như một máy ghi film truyền thống làm nảy sinh nhiều vấn đề khó khăn . Thứ nhất là các lỗi có thể sảy ra trong quá trình biên dịch sẽ ghi lên bản trong quá trình vừa rip vừa ghi bản . Các lỗi này chỉ có thể phát hiện được trên bản kẽm và lúc này là quá muộn gây lãng phí. Các RIP mới ngày nay cùng với máy tính cấu hình mạnh làm cho thông xuất của RIP rất lớn như khi nối trực tiếp với máy ghi tốc độ của RIP bị hạn chế bới tốc độ của máy ghi. Nếu trong trường hợp cần ghi lại một bản thì cần phải có người có chuyên môn về RIP .
Cách giải quyết tất cả các khó khăn trên là tạo các điều kiện để máy ghi bản trở thành một máy phơi kỹ thuật số với các thao tác đơn giản nhất. Việc tách biệt quá trình chế bản với đầu ra là file TIFF-B và quá trình ghi bản tạo ra nhiều thuận lợi. Máy ghi bản có thể được bố trí gần máy in và sẽ ghi bản từ file TIFF-B khi có nhu cầu và do các nhân viên của xưởng in thực hiện. Bộ phận chế bản tập trung vào việc RIP ra file TIFF-B và kiểm lỗi . Nếu có lỗi việc RIP lại không gây hao tốn vật tư. Một số nhà in tại Tp. HCM đã áp dụng rất thành công mô hình này. Ích lợi khác của việc sử dụng TIFF-B là khi mua thêm máy ghi mới chúng ta không cần phải đầu tư thêm RIP mới.
In thử.
In thử là một công đoạn không thể thiếu trong việc ứng dụng CtP . Khó khăn gặp phải là chi phí có thể rất cao nếu sử dụng các vật tư như giấy và mực chuyên dụng. Hãy tìm kiếm giải pháp có thể in thử trên giấy in offset bình thường và khi đó chúng ta có thể in thử tất cả các tay in trước khi ghi bản thật sự. Nếu sử dụng TIFF-B chúng ta còn có thể tiến thêm một mức nữa là in thử có tram. Điều này đem lại lợi thế cạnh tranh không nhỏ Trên đây là một số nhận xét nhỏ về việc đầu tư CtP tại Việt nam . Các ý kiến này có thể còn chưa đầy đủ và mang tính chủ quan nhưng chúng tôi hy vọng giúp ích được cho các nhà in đã và đang có ý định đầu tư CtP. Tại Việt nam hiện nay đã chuyển qua làn sóng thứ hai của việc trang bị CtP , các cơ sở đã có CtP sẽ tiến hành đầu tư thêm để mở rộng sản xuất , các cơ sở chưa có CtP sẽ đầu tư để hiện đại hóa sản xuất và nâng cao tính cạnh tranh. Việc đầu tư CtP hiện nay đã có điều kiện để rút kinh nghiệm